Thứ Tư, 30 tháng 9, 2015

CHÙM THƠ KÍNH THÁNH TÊ RÊ SA

1_ NHẬT KÝ HOA HỒNG

Thân con ước nguyện hóa thành hoa,
Những cánh hồng xinh  thắm mượt mà.
Trải lối cho Thầy êm gót bước,
Lót đường để Chúa nhẹ chân qua.
Chẳng mong mỹ nữ phô kiều diễm,
Không mộng giai nhân nét ngọc ngà.
Chỉ ước một lòng yêu thắm thiết,
Tình xin mến mãi chẳng phôi pha.
Bùi Nghiệp
BÀI HỌA:

ĐÓA HOA BÉ NHỎ

Nhỏ bé tựa như một cánh hoa
Trọn đời   ước nguyện hiến dâng mà
Nhịn đau học lối Cha cam chịu
Vác gánh theo đường Chúa đã qua
Những muốn xông pha nơi đất vỡ
Chẳng ham nương  náu chốn cung ngà
Xin làm giọt nước tinh tuyền mãi
Trong chén máu Ngài nhiệm thắm pha
THINH KHÔNG


2_ NGUYỆN ƯỚC

Nguyện ước thân con một kiếp hèn,
Hoa đời lây lất mặc chê khen.
Đương thì đầu độ luôn ưu ái,
Quá lứa cuối mùa lại lãng quên.
Sớm nở tươi xinh khoe đỏ tía,
Chiều tàn héo úa rũ thâm đen.
Con xin chờ đón bao phiền não,
Chỉ biết dâng yêu chút phận quèn.
Bùi Nghiệp

BÀI HỌA:

TÔI TỚ PHÀM NHÂN

Con đây  thân phận rất phàm hèn
Chẳng đáng chút gì để tán khen
Nước Chúa mưu tìm mong được thấy
Sự đời từ bỏ nguyện xin quên      
Dòng tu tận hiến nương thân mọn
Nhà kín dâng thề khoác áo đen
Tôi tớ đêm ngày tâm nguyện ước
Chúa thương yêu mến phận tôi quèn
THINH KHÔNG



3_ ĐƯỜNG THƠ ẤU

Hãy nên như một trẻ ngây thơ,
Chúa sẽ thương yêu chẳng bến bờ.
Chớ trọng chớ sang nơi điện thánh;
Đừng cao đừng quý chốn cung thờ.
Muốn làm chủ hãy như tôi tớ,
Mộng được khôn xin cứ dại khờ .
Chân thật khiêm nhu hồn bé nhỏ,
Hỡi người đón nhận chớ làm ngơ.
Bùi Nghiệp

BÀI HỌA:

ƯỚC MÃI BÉ THƠ

Xin mãi được làm trẻ bé thơ 
Được Cha yêu mến lẽ vô bờ
Một lòng tín thác Cha từ ái
Một dạ  cậy trông  Chúa kính thờ
Người mến vô chừng thân bé mọn
Người thương  hết mực phận ngây khờ
Gót thơ theo bước chân Cha dắt
Phần phúc Ngài dành chẳng bỏ ngơ
THINH KHÔNG



4_ ĐỜI HOA TIÊN SA

Hai bốn xuân xanh chẳng có nhiều,
Mà nên đại thánh chỉ vì yêu.
Đơn sơ phó thác dâng ngày tháng,
Trong sạch khiêm nhu nguyện sớm chiều.
Như hạt rắc gieo mầm bé nhỏ,
Mà cây trổ nở trái huyền siêu.
Lâng lâng hồn bước về Thiên quốc,
Mưa trận hồng hoa tựa nước triều.
Bùi Nghiệp

BÀI HỌA :

ĐÓA HỒNG CỦA CHÚA

Đây đóa hồng nhung đượm nét yêu
Hồn vươnđến tận đấng cao siêu
Mong manh phận liễu mà tươi lắm
Ngắn ngủi đời hoa vẫn thắm nhiều
Sắc đẹp huy hoàng lan khắp cõi
Hương thơm ngào ngạt  tỏa muôn chiều
Mưa hoa đổ xuống cho trần thế
Đại thánh hưởng ân phúc  đại triều
THINH KHÔNG



5_ NỮ THÁNH TRUYỀN GIÁO

Cánh cửa trần gian khép lại đây,
Âm thầm suy niệm suốt đêm ngày.
Chôn chân bốn bức tường tu khép,
Hướng mắt mười phương đạo Chúa khai.
Ao ước gió thiêng nguồn phúc đủ,
Đợi chờ mưa thánh đổ ân đầy.
Lạ lùng trinh nữ đời phong kín,
Đại thánh truyền rao phúc đức thay.
Bùi Nghiệp

BÀI HỌA:

ƯỚC MUỐN THỪA SAI

Ẩn thân tận hiến mãi nơi đây
Dâng Chúa đời hoa trọ tháng ngày
Đạo thánh  ước ao  đường giảng mở
Tin Mừng khát vọng bước truyền khai
Đức tin lan nhiệm nơi người thế
Hạt giống nẩy thiêng chốn khách đầy
Nhỏ bé âm thầm  mà  vĩ đại
Quan thầy truyền giáo,sáng gương thay!
THINH KHÔNG


6_ PHÙ VÂN

Dung nhan trần thế như hoa nở,
Một thoáng bóng câu qua cửa sổ.
Là gió lang thang thổi mãi đâu,
Tựa mây lãng đãng trôi bồng đó.
Như đèn trước bão hắt hiu tàn,
Giống bọt trên sông tan tác vỡ.
Xin nhớ phù vân kiếp mất còn,
Luyến lưu chi để thêm mang nợ.
Bùi Nghiệp

BÀI HỌAJ :

HUYỄN ẢO

Lợi danh những muốn sinh sôi nở
Vụt nhoáng   đời trôi đành  kết sổ
Tiền hả,giàu sang rác giấy  thôi
Danh ư ,vương đế   đinh  trơn đó
Công lao một kiếp trút hơi tan
Ước vọng cả đời chung cuộc vỡ
Huyễn ảo phù vân   bọt  dễ tàn
Say mê tìm kiếm  chi quàng nợ.
THINH KHÔNG



7_CÁNH BÈO

Lãng đãng bèo trôi trên cánh sóng,
Bềnh bồng sắc tím  như mơ mộng.
Đi về cuối đất gió lang thang,
Trôi đến cùng trời mây lồng lộng.
Phiêu bạt sông hồ kiếm hữu duyên,
Lênh đênh sóng nước tìm vô vọng.
Hỏi mây hỏi nước hỏi trăng già,
Cái kiếp nổi trôi sao mải ngóng.
Bùi Nghiệp

BÀI HỌA :

THEO BƯỚC TIÊN SA

Chị luôn bé nhỏ ,bèo trên sóng
Hằng ước Quê Trời  khao khát mộng
Dâng trí hồn Thơ, phúc viễn trường
Hưởng nhan Thánh Chúa ,ơn cao lộng
Đức ngời  khuyên kẻ  hám phù vân
Gương   tỏ soi người  say ảo vọng
Theo bước Tiên Sa nhỏ phận bèo
Quê Trời vinh phúc hồn ta ngóng

THINH KHÔNG

Thứ Bảy, 26 tháng 9, 2015

6_ CHỮA NGƯỜI BẠI TAY NGÀY SABAT (Phúc Âm Thánh Marco)

6_CHỮA NGƯỜI BẠI TAY NGÀY SA BÁT (MC.3, 1-6)

Sa bát chẳng kiêng Chúa chữa ngay
Một người bại liệt được lành tay
Việc thiêng ắt hẳn rằng nghiêm luật
Điều phúc mà sao phải cữ ngày
Chấp nhặt  trơ lì này kẻ kẻ
Giả hình chai đá hỡi ai ai
Kinh sư- Biệt phái im câm rút
Mật họp bàn mưu bách hại Ngài !
THINH KHÔNG

BÀI HỌA :

CỐ CHẤP

Điều cần chủ nhật cũng làm ngay
Chớ có nề hà cứ xắn tay
Đứa ác gây hiềm đâu chọn lúc
Người nhân tạo phước há kiêng ngày
Ồ anh bại liệt đừng e họ!
Hỡi kẻ rình mò chớ hạch ai? 
Mấy bọn gian tà im tắp miệng
Rủ rê cấu kết hại thân Ngài
Bùi Nghiệp


Thứ Sáu, 18 tháng 9, 2015

VĂN TẾ CỐ CẢ Léopold M. Cadière


VĂN TẾ CỐ CẢ Léopold M. Cadière, nhà Việt học tiên phong

Ô hô!
Người tự trời Tây;
Danh lưu đất Việt.
Thổ địa đành ai chia ranh giới, khiến oán thù thêm gươm súng hăm he;
Văn hóa nào kẻ đặt biên cương, tìm hòa hợp cho răng môi thắm thiết.
Cho hay, Bác Ái vốn trường tồn;
Mới rõ, Vị Tha là bất diệt.

Nhớ Cha xưa:
Vâng ý Chúa, đội mát vành gai;
Tuân ngôi Lời, uống ngon chén nghiệt.
Ngoài hai mươi tuổi đời non trẻ, nguyện xông pha ngàn dặm phận thừa sai;
Hơn sáu chục năm đạo dạn dày, quyết gánh vác mấy miền vai giảng thuyết.
Khi Tam Tòa, khi Đất Đỏ, cao lời răn tín phục Phúc Âm;
Lúc Thuận Hóa, lúc An Ninh, ấm tiếng giảng tụng xưng Thánh triết.
Đến Bồ Khê qua Cù Lạc, xót con chiên khổ cực, bàn tay đơn nâng đỡ kẻ cơ bần;
Về Dinh Cát, lại Trí Bưu, thương xóm giáo đìu hiu, áo dòng rộng chở che người cùng kiệt.
Xây trường làng, dựng xưởng thợ, lụa Di Loan góp mặt cõi phương xa;
Lập viện trẻ, mở nhà thương, tên Cố Cả sáng lòng dân bao miệt.
Quanh tòa giảng, vang tiếng A men;
Dưới mái đời, thắm tình Âu Việt.

Nhớ Người xưa:
Áo dài đen phất phơ lắm miền xuôi ngược, tìm hiểu thêm phong hóa dân gian;
Đôi guốc mộc lóc cóc bao chốn xuống lên, thăm dò đến sơn cùng thủy triệt.
Hội Đô Thành Hiếu Cổ, vài ngàn trang thâm cứu, điều nghiên cùng chuyên khảo kinh đô;
Động Phong Nha Kẻ Bàng, hơn chục chuyến gian lao, thám hiểm rồi tôn vinh địa huyệt.
Ấy là bởi mến yêu sông núi, đất quê người mà vẫn đẹp vẫn xinh;
Cũng chỉ vì quý trọng dân sinh, tiếng hàng xứ thật rất giàu rất tuyệt.
Việt, Mường, Nôm, Hán,… bao ngôn ngữ tinh thông;
Địa, Sử, Triết, Văn… mấy phân khoa quán triệt.
Gom mảnh đá từ thời tiền sử, thấu hiểu ra nguồn cội man sơ;
Đọc tấm bia có thuở tiên triều, kể rõ lại chiến trường khốc liệt.
Áo bà ba giản dị, “ông nhà quê” lũ trẻ gọi lơ ngơ;
Nón lá cũ đơn sơ, nhà bác học bao người khen khôn xiết.
Thư viện thành Phú Xuân, La Mã, im chào mừng người đến đọc sách xưa;
Dưỡng đường đất Pháp Quốc, Hồng Kông, vui kính đón cha về ngơi thân mệt
Một đời mục vụ bao gian khó, mến thánh giá, ung dung sao, đi tận chốn cơ hàn;
Hai lần lao lý bấy thương đau, loan tin mừng, khẳng khái thật, vững lòng trong khắc nghiệt.

Ôi thô!
Ai mãi sống hoài;
Người đâu không chết,
Não nùng hỡi từng hồi chuông báo tử, tiễn Cha về với cõi vĩnh hằng;
Nghẹn ngào ôi bao tiếng khấn nguyện cầu, đưa Cố đến nơi miền vô khuyết.
Trạm ga nhỏ Di Loan đỏ mắt, vời vợi trông mòn mỏi bóng cha già;
Tháp chuông cao Đồng Hới bạc mầu, bơ vơ nhớ bâng khuâng chòm râu tuyết.
Người không Việt, xương chôn đất Việt, tình mênh mông ôm ấp cả nhân quần;
Gốc từ Âu, thân biệt trời Âu, nghĩa sâu đậm chói lòa bao khí tiết.
Va-ti-can Thánh Giáo Tòa thương tiếc, xót xa ôi một cuộc chia ly;
Giáo phận Huế Đại Chủng Viện ngậm ngùi, quyến luyến hỡi những lời vĩnh biệt.

Mừng thay!
Công lao xưa rạng rỡ, thật hân hoan, kín chồng sách còn ghi;
Văn tế nay vụng về, quá ngưỡng mộ, nén tấc lòng kính viết.

Hỡi ơi!
Hồn có hiển linh;
Niệm tình thượng duyệt.

Tháng 12/2009
Nguyễn Phúc Vĩnh Ba



--------------------
Chú Thích

(1)  Thế giới luôn phân chia ra nhiều quốc gia, nên không sao tránh khỏi sự xung đột lợi  ích khiến nước nào cũng lo củng cố nền quốc phòng.

(2)  Vành gai: Mão vành gai thường được thấy ở ảnh và tượng Chúa Giê-su. Ý toàn câu  muốn nói đến sự chấp nhận gian khó của Cố Cả để làm công tác mục vụ, xem đó là bổn  phận thiêng liêng của mình được đấng Cứu Rỗi giao cho.

(3)  Chén nghiệt: Chén đời cay nghiệt. Ý toàn câu muốn nói chấp nhận cuộc sống trần  gian đầy khổ cực, để chuộc lỗi tổ tông và cầu được cứu rỗi.

(4)  L. Cadière đến Việt Nam khởi đầu sự nghiệp truyền giáo vào tháng 10 năm 1892, lúc  Ngài mới 23 tuổi.

(5)  Ngài mất năm 1955, hưởng thọ 86 tuổi sau 63 năm phục vụ Chúa tại nước ta.

(6)  Cù Lạc, Trí Bưu, Bồ Khê, Dinh Cát, Di Loan, Đất Đỏ… là các giáo xứ thuộc hai tỉnh  Quảng Bình, Quảng Trị nơi Ngài từng truyền đạo. Lụa Di Loan do Ngài tổ chức giáo dân nuôi  tằm và sản xuất rất nổi tiếng ở Việt Nam, Đông Nam Á và cả ở Pháp.

(7)  Ngài thường mặc áo bà ba nâu của người dân quê ta khi ở nhà, đi guốc mộc, hoặc  mang áo dài đen khi ra ngoài nên rất gần gũi với dân chúng.

(8)  Hội Đô Thành Hiếu Cổ do Ngài thành lập với tập san BAVH (Những người bạn Cố  đô Huế) gồm rất nhiều bài khảo cứu có giá trị về văn hóa, lịch sử, nghệ thuật, tôn giáo,… của  triều Nguyễn.

(9)  Ngài là người đã thám hiểm và dày công tìm hiểu về các di chỉ ở động Phong Nha,  Quảng Bình, một danh thắng của nước ta được UNESCO thừa nhận là một trong di sản thiên  nhiên thế giới. Ông đã suy tôn động Phong Nha là “Đông Dương đệ nhất động”.

(10)  Học giả Louis Malleret khẳng định rằng linh mục Cadière là người sáng lập thực sự  của ngành thiểu số học ở Việt Nam. Ngài đã nghiên cứu sâu xa về các dân tộc còn man sơ  như người Tắc-Củi, người Mường…

(11)  Năm 1895 Ngài đã tìm thấy tấm bia đá tại Quảng Bình, ghi chép về cuộc nội chiến  Trịnh - Nguyễn. Công trình nghiên cứu về tấm bia và cuộc qua phân này có tên là Lũy Thầy  Đồng Hới đã được giải thưởng Học Viện Pháp quốc năm 1903.

(12)  Ngài để lại khoảng 250 công trình nghiên cứu về ngôn ngữ tín ngưỡng, phong tục, địa  lý, sinh thái, môi trường… về đất nước Việt Nam.

(13)  Ngài đã bị hai lần quản thúc bởi Nhật và chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

(14)  Toàn quyền Pháp đặc biệt cho lập một trạm ga nhỏ ở Di Loan để riêng Ngài tiện lên  xuống khi đi lại bằng xe lửa trong thời kỳ Ngài làm cha xứ và nghiên cứu tại đây.

(15)  Năm 1953, Tòa Tổng Giám mục cho phép các linh mục Pháp được trở về nước, Ngài  đã nêu nguyện vọng: “Cả đời tôi, tôi đã dâng cho xứ sở này, cho tôi được ở lại và chết ở đây.”

(16)  Ngài mất tại Huế năm 1955 và được an táng trong khuôn viên Đại Chủng Viện, Huế. 

Thứ Hai, 14 tháng 9, 2015

SUY TÔN THÁNH GIÁ


Đây cây Thập giá cứu muôn người

Nơi đóng, câu treo Đấng cứu đời

Vương đẫm máu đào khôn xiết kể 

Hằn in dấu tích chẳng hề vơi

Mau quỳ kính bái Chiên Thiên Chúa

Hãy đến suy tôn nhiệm phép Trời

Ơn phúc linh hồn tôi được sạch

Chính trên cây gỗ Thánh này thôi !

THINH KHÔNG

14-09-2015

Thứ Tư, 9 tháng 9, 2015

5_TRANH LUẬN ĂN CHAY (Phúc Âm Thánh Marco)



5_TRANH LUẬN ĂN CHAY (MC.2, 18-22)

Các phái thảy ăn chay
Môn đồ Chúa lạ thay
Không hề kiêng luật ấy
Chẳng chịu giữ điều này
Vì tiệc bàn chưa dứt
Bởi chàng Rể hiện đây
Bầu da kia đã cũ
Rượu mới đựng  sao hay !
THINH KHÔNG

BÀI HỌA : 

LUẬT CŨ NGƯỜI MỚI

Bao người thảy giữ chay
Môn đệ lạ lùng thay
Mỹ vị không kiêng đấy
Cao lương chẳng cữ này
Hôn nhân còn tiếp đó!
Cỗ tiệc cấm sao đây?
Rượu cũ trong bầu mới
nào chung đựng mất hay
Bùi Nghiệp 

Thứ Bảy, 5 tháng 9, 2015

4_ĂN UỐNG VỚI TỘI NHÂN (Phúc Âm Thánh Marco)



4_ĂN UỐNG VỚI TỘI NHÂN (MC.2, 15-17)

Vào nhà quan thuế cùng ngồi ăn
Với kẻ đời khinh lũ tội nhân
Biệt phái dèm pha: ồ gã ngốc
Kinh Sư khích bác: Rõ đồ gàn
Chúa tuyên: Cần thiết tìm ai lỗi
Ngài phán: Can chi gọi kẻ lành
Xuống thế, Con Người theo lẽ ấy
Lương Y phải đến với ai cần.
THINH KHÔNG

BÀI HỌA :

LÝ LUẬN TIỆC TÙNG

Chúa được mời vào dự tiệc ăn
Cùng hàng thu thuế lẫn phi nhân
Kìa: bày biệt phái chê bai dở
Đó: hạng kinh sư trách móc gàn
Kẻ mạnh đâu cần y thuật chữa
Người đau mới muốn thuốc thang lành
Phúc âm chẳng thuyết người công chính
Mà nhủ cho ai tội lỗi cần.
Bùi Nghiệp