VĂN TẾ NGŨ THẬP CHU NIÊN KỴ NHẬT TẰNG TỔ-ĐA MINH VŨ VĂN HOẠT
(14/01/1962 – 14/01/2012)
Kính thắp nén hương;
Trọng nhìn di ảnh.
Tĩnh hướng Trí tâm;
Dâng trào xúc cảm.
Nơi Thiên Quốc, Tằng Tổ phúc vinh;
Chốn dương trần, cháu con tưởng ngẫm .
Nhớ Linh xưa:
Ất Hợi niên-làng Lê Xá- quê Hưng Yên, hoa khai nhụy nở mở
mắt chào cha mớm mẹ, nhập cõi nhân sinh;
Tân Sửu Kỷ-xứ Tân Mai- đất Biên Hòa, sức cạn tuổi cao xuôi tay biệt tử từ tôn,
giã nơi sống tạm.
Theo gương Tiên Tổ, một lòng kính Chúa, đúc tạc tim gan;
Học đức Mẹ Cha, nhất dạ yêu người, khắc ghi tâm khảm.
Từ niên thiếu đã khai tâm Hán tự, trí hằng thông làu Luận ngữ - kinh thi;
Lúc thành niên từng thọ nghiệp Lang Y, tay cũng thành thục Dao cầu - thuyền tán.
Nhưng hiểu tường lẽ
sinh tử tha nhân;
Cùng quán triệt sự tồn vong sinh mạng.
Nên theo nghề cầy cấy, mưu tạo kế ấm no;
Quyết gác nghiệp thuốc thang, để tránh điều bất cẩn.
Xứng danh dòng dõi tổ,
nghệ may vá cũng tinh.
Chẳng thẹn con nhà tông,
thuật thêu thùa cũng đảm.
Giúp cha mũi chỉ, lắm
lúc việc dồn;
Phụ bố đường kim, những khi nông rảnh.
Phong thái nghiêm trang;
Ngôn từ nhã nhặn.
Quen tĩnh bước, Chỉ quá bộ nơi hữu sự, giữ trọng tư phong ;
Vốn kiệm lời, chỉ xuất
ngôn khi thiết cần, gìn nghiêm thiện bản.
Đi cày đi cấy, luôn áo trắng khoác mang;
Tại thất tại gia, vẫn
bạch y phục vận.
Chuyện gia đình hằng tận tâm tận lực chu toàn;
Việc làng xã luôn nhiệt huyết nhiệt thành cáng đáng.
Hai bốn tuổi, chức Lý Trưởng nhận lãnh, do hàng xã nhất trí bầu
trao;
Ngoại tứ tuần, ngôi Tiên Chỉ thủ quyền,bởi dân làng một lòng
tín cẩn.
Đảm siêng việc đạo, hằng
góp sức tận tâm;
Chẳng quản việc đời, luôn
trĩu phần kín bận.
Lúc giữ vai Trùm Họ Lê Xá
thật năng nổ nhiệt thành;
Khi thủ chức Chánh Trương Đan Chàng càng chuyên chăm mẫn cán.
Gánh việc Họ, quyết lòng hết dạ hăng
say;
Vác việc Làng, dốc sức
xả thân lược đảm.
Luôn đùm bọc người thế cô hẩm phận , cùng giúp trẻ côi cút
thành thất lập thân;
Hằng đỡ bênh kẻ nghèo khổ đen phần,cũng Trợ người khó khăn vượt
cơ vượt hạn.
Hoạch định sửa sang đường xá đi lại, tạo cảnh làng xã khang
trang;
Họp bàn canh tân tục lệ cưới xin, để phần lễ cheo tiết giảm.
Vận động khuyến khích dân làng, phó thác Thánh Tâm Chúa chở che;
Tổ chức dâng hiến Giáo Họ, nương nhờ Mẫu tâm
Mẹ bảo giám.
Vì vậy mà Xứ Đạo yên
bình vang vọng lời kinh;
Nhờ thế mà làng thôn
sạch sẽ xanh tươi bóng nhãn.
Giữ đạo trung ngay, huấn cháu bền đỗ Đức tin ;
Sống đời mẫu mực, dạy con vẹn tròn bổn phận.
Đôi chữ “TỊNH QUAN” :
Tỏ ghi ngay cổng, xuất nhập hằng thi;
Đậm khắc chính môn, khứ
lai tự huấn.
Dạy con thinh lặng, nhìn người nhìn vật để suy;
Bảo cháu lắng lòng, ngắm cảnh ngắm hoa mà ngẫm.
Lại câu “TỊNH TRAI TU THÂN” :
Đính treo nội thất, khuyên răn học sống tịnh chay;
Niêm yết giữa nhà, nhắc
nhở tu rèn đức hạnh.
Quá ngũ thập, hưu
nghỉ chăm vườn tược an nhiên;
Ngoại lục tuần, ẩn thân sống nội tâm trầm lặng.
Kinh Kính Mẹ, sớm tối thì thầm ;
Chuỗi Mân Côi, đêm ngày lẩm nhẩm.
Ôi bom đạn xới cầy;
Rồi làng thôn ly tán.
Những tưởng tuế cạn, an thân chầu cạnh mẹ cha;
Nào ngờ tuổi già, đẫm lệ biệt ly quê quán .
Gần thập kỷ, hướng đất Bắc nhớ Quê Tổ quặn lòng;
Thêm tám năm, trú phương Nam cùng cháu con di lánh.
Đáp tiếng Chúa, hồn
vui hướng Quê Trời;
Theo Tổ Tiên, Người xa lìa cõi tạm.
Tám bảy năm lẻ, đủ
cay đắng ngọt bùi;
Ba vạn ngày hơn, đầy sướng vui khổ đoạn.
Tinh thần đức hạnh, huấn bài học tỏ tường;
Cuộc đời trung ngay,
nêu tấm gương ngời sáng .
Hôm nay :
Ngũ thập kỷ, âm cự tới kỳ;
Năm mươi năm, dương hồi đúng hạn.
Họ tộc xum vầy;
Cháu con tụ tập.
Tưởng nhớ đấng sinh
thành;
Tạ ơn công giáo huấn.
Xin Chúa Trời ban thưởng phúc ân;
Nguyện Tổ Tiên vui
phần viên mãn.
Đây tử tôn hèn mọn
thành tâm ;
Xin Tằng Tổ anh linh hiển khán.
Cháu con kinh dâng;
Tằng tôn bút cẩn.
. VŨ
QUANG HUY