(Ý Thánh vịnh 41 và 137)
Tâu Ngài tam vị!
Lạy đấng cửu trùng!
Xin mưa rơi hạt;
Để đất trổ bông.
Linh hồn tôi ngóng đợi hừng đông, Như nai đó khát khao nguồn nước;
Thần trí mỗ băn khoăn tảng sáng, Tựa cá này ao ước mạch sông.
Mong đến chỗ đồng um xanh cỏ;
Đợi về nơi suối ngất biếc trong.
Ơi hỡi:
Hồi tưởng lúc xưa, nô nức kèn vang tiến về Thiên điện;
Nhớ về ngày trước, rộn ràng trống giục dừng bước Thánh cung.
Giữa muôn người cờ bay nượp nượp;
Cùng vạn kẻ sóng rợp trùng trùng.
Môi hớn hở thần thi chúc tụng;
Miệng hân hoan nhã nhạc vang lừng.
Kẻ địch bay gan bạt vía;
Quân thù vỡ mật kinh hồn.
Quân vương thổi sáo rước hòm bia, tiếng địch vút vang cung réo rắt;
Hoàng hậu tung hoa mừng thập ước, cung đàn rung trổi khúc véo von.
Vạn dân vui sung túc;
Trăm họ hưởng ấm nồng.
Mà nay:
Tù rạc lưu vong thần dân Do Thái;
Đọa đày phát vãng con cái Sion.
Quan ải buồn u uất ;
Bến sông khóc nỉ non.
Trai thanh ảo não beo mặt bủng;
Gái tú gầy trơ úa má hồng.
Cành liễu biếc đàn cong treo hờ hững;
Bậc đá xanh trống thủng vứt trơ không.
Thề lưỡi dính hàm, câu hát ấy riêng dành ngôi Đức Chúa;
Nguyện môi khâu miệng, lời ca đây chỉ tụng đấng Càn Khôn.
Quân địch đó chúng đừng hoài vọng;
Thù nhân kia ngươi chớ trông hòng.
Do án thanh trừng truyền đời con cháu;
Bởi lời phản nghịch lầm lỗi cha ông.
Trời hay chăng tá?
Chúa thấu nguồn cơn!
Ngài ơi:
Xin ra tay cứu vớt;
Nguyện mở lượng khoan hồng.
Để linh hồn mỗ quy hồi dũng lực;
Cho thần trí tôi trở lại uy phong.
Chúa dẫn đường trăng tàn mải ngóng;
Trời đưa lối nguyệt tận hằng trông.
Bùi Nghiệp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét