THINH - KHÔNG
Trầm lặng cõi thinh không/ Để nghe lắng tiếng lòng/ Nhận ra mình chẳng có/ Biết rõ kỷ là không/ Câu chữ hèn khơi ý/ Vần thơ vụng thúc hồn/ Xin dâng lời cảm tạ/ Kính tiến Đấng cao tôn
Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2024
THƯƠNG KHÓ PHÚ
Thứ Bảy, 23 tháng 3, 2024
14 ĐÀNG THÁNH GIÁ- ĐƯỜNG THI NGÂM KHÚC
Thứ Hai, 10 tháng 4, 2023
ALLELUIA- MỪNG CHÚA PHỤC SINH
ALLELUIA MỪNG CHÚA PHỤC SINH
Họ đã thấy một hang mồ mở
trống
Và Chúa tôi đã thật sống lại
rồi
Tử thần nay phủ phục dưới
chân Người
Vinh quang Chúa uy uy linh
rạng tỏ
Mới mới đó trải muôn vàn đau
khổ
Con Chúa Trời đã chiến thắng
quỷ ma
Uy danh Người cả vũ trụ tụng
ca
Cho nhân thế được đời đời cứu
chuộc
Thứ Hai, 27 tháng 3, 2023
Chủ Nhật, 25 tháng 12, 2022
VINH DANH THIÊN CHÚA
Thứ Năm, 24 tháng 11, 2022
KÍNH MỪNG CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
KÍNH MỪNG CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT
NAM
Niềm tin sắt đá rõ anh hào
Vinh hiển quê Trời, phước biết
bao
Can đảm không nề thân đáo ngục
Hiên ngang bất chấp cổ kề đao
Tỏ gan, tiên tổ vong sinh mạng
Truyền đạo, thừa sai đổ máu
đào
Cầu giúp cho con nơi cõi thế
Đức tin vững mạnh chẳng lung
lao
THINH KHÔNG
24-11-2022
Chủ Nhật, 17 tháng 4, 2022
ALLELUIA- MỪNG CHÚA PHỤC SINH
Thứ Sáu, 15 tháng 4, 2022
THƯƠNG KHÓ PHÚ
Chủ Nhật, 7 tháng 2, 2021
VĂN TẾ THI HỮU BÓNG TÀ DƯƠNG
VĂN TẾ THI HỮU BÓNG TÀ DƯƠNG
(Nhân ngày Tất Khốc – 49
ngày)
Man mác khôn nguôi;
Bàng hoàng khôn xiết.
Dẫu biết tuổi BÓNG TÀ;
Nhưng sao anh BÙI NGHIỆP…
Lại đột ngột sinh tử phân ly;
Nỡ vội vàng âm dương cách biệt.
Hồn anh nhẹ tiêu dao;
Lòng tôi buồn da diết…
Nhớ linh xưa:
Đất văn chương Nam Định – Tân
Mão niên, khai lòng mẹ nhập thế, lời khóc định minh;
Thành quần hội Gia Định- Canh
Tý kỷ, vâng tiếng Chúa quy thiên, môi cười mãn nguyện.
Lúc nước chia, rời bỏ Thành
Nam đời lưu lạc, còn ẵm ngửa đành cam phận di dân;
Ngày quốc hận, định cư sông Cửu
chí làm trai, quyết tu học mong nối hàng anh kiệt.
Thời xã tắc điêu linh, đã
tình nguyện bảo quốc, rèn tay súng tỏ chí nam nhi;
Thuở sơn hà khói lửa, tròn
trách nhiệm vệ dân, xếp bút nghiên theo đời binh nghiệp.
Rõ bậc tài hoa:
Món thi họa tinh thông;
Thú cầm kỳ điêu luyện.
Bức truyền thần thả bút, người
trong tranh sinh động thần hồn;
Hình phong cảnh phối màu, địa
lồng thiên diễm huyền phong nguyệt.
Gậy nhạc trưởng, năm mười
ngón điều khiển huyền siêu;
Khúc phối âm, ba bốn bè hòa
ngân trác tuyệt.
Phú thi cười muôn sự, mỗi tiết
âm bày nỗi bể dâu;
Văn tế điếu bao người, từng câu
chữ khơi dòng lệ huyết.
Thế mà:
Gặp khi nước mất, nòng nọc đứt đuôi;
Phải cảnh nhà tan, dưa đen lộn kiếp. (*)
Sở học vứt đi;
Tài năng quăng hết.
Nhờ cuộc thi thơ đạo, duyên hữu
duyên ta nên cánh chim bằng;
Bởi ý thích tầm chương, diện đối
diện ta thành đôi bạn thiết.
Không mầm gốc rễ, mà số phần nhiều
sự hai kẻ giống in;
Chẳng cuống dây dưa, sao sở
thích lắm điều đôi đằng y hệt.
Kẻ một thuở rúc sơn lâm, thồ
cây đốn củi, đà ngỡ kiếp chôn trong cảnh khốn cùng;
Người cũng thời luồn cùng cốc,
đào trầm đốt than, những tưởng đời vùi giữa vòng oan nghiệt.
Anh xích lô – ba gác, từng nước
mắt trào sôi;
Tôi cuốc xẻng – xà beng, cũng
mồ hôi vắt kiệt.
Huynh kiếm cơm áo bằng nghiệp
phó đèn;
Đệ tìm ngô cháo chính nghề thợ
điện.
Trước tuổi thằng đã tóc hoa;
Chưa già đứa đà râu biếc.
Người giỏi phú, nỗi suy tư
náu áng văn chương;
Kẻ ham thơ, bầu tâm sự gửi hồn
hàn mặc.
Chẳng dám sánh tợ rồng hội
mây;
Mà sao thể như tôm gặp tép?
Luận thi phú thỏa lòng như thể
uống sương mai;
Bàn văn chương ngọt lưỡi còn hơn
say rượu nếp.
Thả làn khói, bao tâm sự tràn
trải bài văn;
Cạn ly cay, những nỗi niềm in
sâu đáy mắt.
Rồi một ngày:
Bài “VĂN TẾ MỖ”, tay trao tay
mắt nháy đuôi mày;
Khúc “ai điếu mình”, anh gửi
tôi môi cười nhếch mép. (1)
Phải chăng tự giễu, khi sức
còn khỏe như vâm;
Rõ thật tự trào, vì đời vẫn
vui hơn tết.
Anh bảo chẳng đùa:
Ậy … Thân ta ta hay;
Ấy…Đời mỗ mỗ biết. (*)
Dao sắc nào gọt được chuôi;
Mai này ai khóc cho Nghiệp!
Hoa tàn đời thương xót ngợi
ca, rồi lúc mùa thay sắc, vẫn còn kẻ cảm ngâm;
Người đi ta ngậm ngùi văn tế,
chạnh khi mỗ xuôi tay, nào có ai thương viết.
Nỗi tâm sự thấu lòng;
Lời tỉ tê gan mật.
Và tôi thề, biền ngẫu sôi kinh;
Nếu ai trước, tri âm chấp viết.
(2)
Ngờ đâu
Anh nhẹ gót theo mây;
Tin thắt lòng hơn sét.
Thư chúng mình trao đổi, lời
còn ấm còn nồng;
Sách hai đứa định in, bài dở
xem dở duyệt.
Hồn tri kỷ, thôi đã viễn xa;
Bóng tri âm, rày đây vĩnh biệt.
Khúc “tự điếu mình cũ, trước
mỗi câu mỗi đoạn vui ngâm thấy dạ tưng tửng vậy thôi;
Bài “VĂN TẾ MỖ” xưa, giờ từng
chữ từng lời nhẩm đọc nghe hồn quặn đau khôn xiết.
Tâm thất này tưởng ngưng;
Nửa hồn tôi như chết.
Hôm nay:
Âm cự giáp nhật thiên du;
Dương hồi tròn ngày tất khốc.
Đẫm lệ lòng, châm nến lửa, một
khúc nôi thương tiếc muôn vàn;
Gìn lời hứa, thắp nén hương,
vần ai điếu kính dâng tha thiết.
Cõi trời mây người thỏa bước,
thôi vướng bận bụi hồng;
Nơi dương thế tôi thắt lòng,
mãi nhớ thương Bùi Nghiệp.
Nguyện chúc anh miên viễn
phúc Thiên đàng;
Hẹn gặp nhau hợp quần duyên
nghĩa thiết.
Chúc hồn anh tiêu dao;
Mà Lòng tôi đau buốt.
Kính văn;
Bái biệt .
CAO BỒI GIÀ (Vũ Quang Huy)
Ghi Chú:
(*): chữ in nghiêng là những
lời trích từ bài Văn Tế Mỗ của anh Bùi Nghiệp (Bóng Tà Dương)
(1): Ngay khi còn khỏe, anh
Bùi Nghiệp đã tự viết bài “văn Tế Mỗ” để điếu chính mình, rồi trao bài văn tế
đó cho Cao Bồi Già và tâm sự rằng: “Tớ
đã viết văn tế cho biết bao bằng hữu, người thân, nhưng chắc khi tớ về cõi xa
xăm , thì chẳng có ai viết cho mình.
(2): Thế là Cao Bồi Già đã quyết theo học viết Phú, theo thể loại biền ngẫu từ sư phụ Bùi Nghiệp và cả hai đã hứa với nhau rằng: Ai đi sau, thì sẽ viết văn tế cho người đi trước. Hôm nay Cao Bồi Già xin giữ lời chắp bút khóc người bạn thiết Bóng Tà Dương.
Thứ Sáu, 25 tháng 12, 2020
LẠY CHÚA HÀI ĐỒNG, XIN ĐOÁI THƯƠNG NHÂN THẾ
Kính chúc quý độc giả một mùa Giáng Sinh an
lành trong ơn Chúa Hài Đồng.
LẠY CHÚA HÀI ĐỒNG, XIN ĐOÁI THƯƠNG NHÂN THẾ
Giữa Đêm giá, sương rơi cùng tuyết đổ
Chốn hoang vu,
Đấng cứu độ giáng trần
Mặc xác phàm , sinh sống giữa nhân gian
Ôi tình Chúa, bao la làm sao thấu
Thương nhân thế, một tình yêu tuyệt hảo
Xuống trần gian, để nói tiếng nhân loài
cho nhân trần hiểu biết Chúa là ai
tại sao Chúa lại cam lòng gánh khổ
chỉ vì thương toàn nhân loại khốn khổ
Chữa người mù thoát khỏi bóng tối tăm
Tội nhân kia, chữa khỏi bước lỗi lầm
Lời hằng sống mở đường lên Nước Chúa
Nhân sinh hỡi, hãy nhìn xem Đức Chúa
Sinh ra đời chọn hang cỏ khó khăn
Chết treo thây, chẳng kêu trách phàn nàn
Để cứu độ cho
nhân gian hằng sống
Vâng Đêm thánh,
chuông giáo đường ngân vọng
Réo nhân gian kính đón Chúa Hài Đồng
Ban bình an cho mọi kẻ thiện tâm
Nhưng lạy Chúa, giáo đường nay vắng lạnh
Vì thần chết đang rập rình lảng vảng
Ôi! Chúa ơi, thương thế giới hôm nay
Dịch bệnh hành chẳng nương thứ chi ai
Kìa như rạ, người đua nhau ngả chết
và triệu kẻ còn kêu rên nằm liệt:
Buồng phổi con
đang nghẹt ứ Chúa ơi
Chắc xưa trên Thánh Giá tận cùng hơi
Chúa cũng thế, trong từng cơn hấp hối
Đày thân xác, tim gan nào thở nổi?
Từng nỗi đau, Chúa thấu hết người trần
Xin xót thương, xin dung chữa nhân gian
Biết vì tội, nên đoàn con đáng chết
Xin khẩn nguyện, cùng dâng lời tha thiết
Cho nhân gian mau chóng hưởng bình an
Chúa Hài đồng thương cứu kẻ thiện tâm
Xin thương chữa muôn dân toàn thế giới
Cho nhân loại chóng thoát vòng tăm tối
Lại được vui hưởng phúc an bình
Cùng tạ ơn màu nhiệm Giáng Sinh
Cho nhân thế được hàm ân cứu độ.
THINH KHÔNG
24-12-2020
Thứ Tư, 23 tháng 12, 2020
AI TÍN: ANH PHÊRÔ BÙI NGHIỆP ĐÃ RA ĐI ...VÀ BÀI VĂN TẾ ANH VIẾT SẴN CHO MÌNH...
AI TÍN:
Bạn thơ BÓNG TÀ DƯƠNG
Anh Phêrô BÙI NGHIỆP
Thành viên CLB Đồng Xanh Thơ Saigon
Đã được Chúa gọi về vào hồi 2:20 AM ngày 22-12-2020, tại Saigon, hưởng thọ 70 tuổi.
Bạn hữu vô cùng đau buồn, thương tiếc và xin
Thành Kính Phân Ưu cùng gia quyến nhà thơ Bóng Tà Dương.
Nguyện xin Thiên Chúa thương đón nhận linh hồn
anh Phêrô sớm vào hưởng Thánh Nhan Chúa.
Xin chia sẻ cùng quý thi hữu: Bài Văn Tế , mà anh
đã viết sẵn cho chính mình và ký gửi Cao
Bồi Già từ trước:
VĂN TẾ MỖ
Bào ảnh mấy vầng;
Pù vân một kiếp.
Đôi ngả âm dương;
Hai vừng nhật nguyệt.
Thuyền tồn vong cập bãi tha
ma;
Xe sinh tử dừng bờ mộ huyệt.
Tang điền nhất đán viễn
phương;
Thương hải ba sinh hồ điệp.
Mỗ đây:
Đất Nam Định, phủ Trực Ninh cắt
rốn chào đời;
Tiết thu phân, năm Tân Mão
chôn rau hòa nhịp.
Nối bước tổ tằng, đâu giầu ba
họ, nương sắn ruộng dâu;
Theo chân bác mẹ, nào khó ba
đời, giậu tơi vồng diếc.
Chín họ chân lấm tay bùn;
Ba đời tay làm hàm xiết.
Bớ giống trâm anh;
Hỡi dòng thế phiệt.
Họ hàng bao người: Chánh
lãnh, phủ tri?
Dòng tộc mấy đấng chức phần:
Ông đồ, thầy điệp. !
Buổi nhiễu nhương rời Bắc bộ
cha cõng tha hương;
Thời tao loạn đến Nam kỳ mẹ bồng
lập nghiệp.
Gởi lòng son: Vương nhã khánh
nho;
Trao tâm huyết: Đăng khoa chi
nghiệt.
Ước nên giống má rạng rỡ tông
môn;
Mong đáp cao dầy nở mày nở mặt.
Ngờ đâu:
Hai năm nòng nọc đứt đuôi;
Sáu tháng dưa đen lộn kiếp.
Trâu cầy quá buổi , hồng hộc
hoài công;
Chó chạy quá cơm, long nhong
mất nhịp.
Sách đèn đánh trống bỏ dùi;
Công danh thử kêu bắn tịt.
Cũng một thời:
Chốn thao trường lấp lánh “an
pha”;
Ngoài chiến địa ngời ngời
“Mai biếc”.
Nửa bồ binh pháp, buổi nhiễu
nhương huynh đệ tương tàn;
Vơi túi kinh luân, thời tao
loạn nồi da nấu thịt.
Ba năm da ngựa bọc thây;
Ngàn bữa nằm gai nếm mật.
Rồi đến lúc:
Vào trường cải tạo, cơ trời
bí lối bàn cờ…
Ra chốn lao lung, vận nước hạ
hồi gánh xiếc.
Góp gom tài sản, vẹt lối sậy
hoang;
Thu vén tư trang, cưỡi cồn
sóng biếc.
Bàng hoàng dây thừng trói khủy,
định mệnh oái oăm;
Bỡ ngỡ họng súng kê đầu, số
phần chết tiệt.
Bại sản tan gia;
Cùng đường khánh kiệt.
Phận ngựa trâu lại phận ngựa
trâu;
Thân khốn kiếp hoàn thân khốn
kiếp.
Đã những khi:
Này nơi thị tứ xích lô xe
kéo: quại dạ dầy;
Nọ chốn sơn lâm thồ củi đốt
than: quằn sốt rét.
Đào vàng đãi đá rúc tận non
xanh;
Ngậm ngải tìm trầm chui luồn
rừng biếc.
Vai vác chai sần “cuốc xẻng –
xà beng”;
Tay bươi rời rã “xẹc lai – xà
gạc”.
Manh áo vợ - nhuộm lẫn mồ
hôi;
Bát cơm con – hòa chung nước
mắt.
Muốn quăng thân xuống giếng
hòng kết liễu đời;
Toan đập sọ vào tường cho rồi
tai kiếp.
Nhưng có lúc:
Ngày tỏ nhớ trang cổ sử: Hàn
Tín, Tử Nha;
Đêm trăng lầm giở Thánh Kinh:
ông Rô, ông Gióp.
Ngửa mặt tâm sự Cao Xanh;
Cúi đầu tỉ tê đất thấp.
Ngọn bút cùn còn vung vẩy bài
thơ;
Tàu mực cạn cố mài ra sắc huyết.
Rồi đến ngày:
Then tạo hóa chuyển xã tắc
qua hồi;
Máy càn khôn quay sơn hà đến
hiệp.
Rời núi rừng xôi hỏng bỏng
không;
Về thị tứ xang bang xất bất.
Nhà đèn nhà điện - mỏ lết kềm
răng;
Phu gạch phó nề - cái bay cái
thước.
Giăng giăng điện đóm, thiên hạ
sáng lòa;
Mò mẫm đèn dầu, nhà ta tối mịt.
Thế nên:
Thương con vợ khéo - kiếp nữ
nhi chẳng đỗ bến trong;
Chán thằng chồng đần – thân bồ
liễu nhè neo vũng đục.
Hoa nhài cắm bãi cứt trâu;
Mâm son bày chiềng đũa mốc.
Giận cá băm thớt, chửi loạn
cào cào;
Quăng chó mắng mèo, hung hăng
bọ xít.
Ngoài ngõ lời ong tiếng ve;
Trong nhà ra chì vào chiết.
Thôi thôi:
Ngậm miệng giả ngọng giả câm;
Bịt tai hòng ngây hòng điếc.
Gậy tầm vông hèo đứa viển
vông;
Dây nghiệt ngã trói thằng oan
nghiệt.
Vay làn hương bằng hữu thơm râu;
Mượn danh giá bạn bè ngọt
mép.
Nấp vây rồng vỗ ngực xưng
tên;
Dựa râu cọp ra oai ra phết.
Sắp đến ngày sinh tử cận kề;
Gần đến lúc âm dương cách biệt.
Thân ta ta hay;
Đời mỗ mỗ biết.
Tợp ngụm hèm xấp giọng, cung
văn đây tớ tự điếu mình;
Nốc bát rượu lấy hơi, lời tế
mỗ chiềng ra cho hết.
Bông rua!
Tạm biệt.
BÙI NGHIỆP – BÓNG TÀ DƯƠNG.