Chủ Nhật, 25 tháng 12, 2016

CẢM TẠ NGÔI HAI

CẢM TẠ NGÔI HAI

Ôi Chúa Ngôi Hai đã xuống trần
Khoác thân nhân thế, khổ đau mang
Trao ban ân phúc vô bờ bến
Rộng trải tình thương  tựa suối ngàn
Dâng Đấng Tối Cao lời chúc tụng
Thưởng người tâm thiện  sự bình an
Ôi ơn châu báu  cao vời vợi
Con biết đền sao  với sức …phàm!

THINH KHÔNG

Thứ Bảy, 24 tháng 12, 2016

GIÁNG THẾ PHÚ



Thiên Chúa trên trời;
Con Vua hạ thế.
Bỏ chốn cao sang;
Chọn nơi quạnh quẽ.
Xuống cõi hạ ,mang phần thân mọn ,không chút đắn đo;
Thoái ngai cao ,mặc lấy tính phàm ,chẳng chi câu nệ.
Khai hộ tịch hồi quy,đất tổ bơ vơ;
Lệnh kiểm tra tái đáo,quê nhà rúng rẻ.
Nương bụng Mẹ ,tối vắng lang thang ,kiếm nơi khoác phận người;
Cậy tay chồng ,đêm khuya thất thểu ,tìm chốn  sinh con trẻ.
Biết bao lữ điếm khước từ;
Vô số quán hàng xua né.
Hết phương cuối nẻoê chề;
Tận lối cùng đường tắc bế .
Chuồng bò ngựa ,đồng không mông quạnh ,hơi súc vật tiếp đón  mừng reo;
Lầu đài người ,chăn ấm nệm êm ,dạ nhân sinh hững hờ coi   rẻ.
Lạy Đấng Con Trời;
Ôi Vua Cứu Thế.
Đơn côi khốn khổ từ phút chào đời;
Thiếu thốn bần hàn ngay giây nhập thế.
Kìa vũ trụ ,sáng mừng thay thảy  cả muôn ngàn tinh tú   xa xôi;
Hỏi nhân loài ,nghênh đón có ai ai ngoài dăm bảy mục đồng nhỏ bé.
Thiên quốc hân hoan;
Dương trần vô lẽ.
Thiên thần hữu ý ,tấu địch vang tiếng tầng cao;
Nhân loại  vô tâm ,che tai bặt hơi muôn kẻ.
Mấy kỷ đời qua;
Hai ngàn  năm lẻ.
Bao phần nhân loại đã rõ tin thờ;
Lắm kẻ dương gian còn chưa biết lẽ.
Vinh hiển   Chúa cao trọng trên Trời;
Bình an người  thiện tâm dưới thế.
Ơn cứu độ vạn kiếp  mãi tận khó tường;
Phúc tẩy thanh muôn dân vô cùng khôn kể.
Nay kính nhớ:
Sáo vọng run thờ;
Chuông ngân gióng tế.
Thiên quốc cố  ôn khắc giáng sinh;
Trần gian lại  kính ngày đại lễ.
Miệng  khách hỡi ,nào ca tụng muôn lời;
Hồn tôi  ơi ,hãy mừng vui mọi lẽ.
Cảm tạ ơn   Con Trời;
Tụng ca danh Chúa Tể.
Vì nhân thế hy sinh;
Bởi tình yêu hiến tế.

             CÙ MÈ

Thứ Hai, 21 tháng 11, 2016

SẮC CHỈ PHÂN THÁP - PHÚ

SẮC CHỈ PHÂN THÁP (1)
(Độc vận)

Than ôi!
Chiếu chỉ cắt chia;
Lệnh truyền phân tháp.
Bạo đế dã man;
U vương độc ác.

Ngày ấy:
Thù da trắng Phúc Thi đâm quái gở, giận cá to hạ lệnh thanh trừng;(2)
Đánh dân đen Tự Đức nổi điên khùng, băm thớt lớn  ra tay đàn áp.
-“Trừ Gia-tô tôn giáo tan đàn!
Triệt Tả Đạo nhà thờ tụ tập”.

Cuối canh thân (1860)  chuẩn bị kinh hoàng;
Nguyên tân dậu (1861) thi hành gay gắt.
Cơ mật viện hoạt động không ngừng. kiềm kê thôn ấp, hối quân binh lùng sục kỹ càng;
Lính triều ca hung hăng vô kể , bố ráp xóm làng , lùa giáo hữu tập trung nghiêm nhặt.

Tiếng khóc dậy trời cao;
Lời than bùng  đất thấp.
San bằng vườn tược, gom cho xong tín hữu hiền lành;
Đốt rụi cửa nhà, tóm bằng hết giáo dân chất phác.

Đứa đối đầu đâm hết cho xong;
Thằng chống cự giết ngay tức khắc.
Nghĩa phu thê rẽ  hẳn hết xum vầy;
Tình phụ tử chia xa hầu tan tác.
Thích má trái căn nguyên đạo giáo, nung thỏi gang đóng triện ngang mày;
In má phải gốc gác tội nhân, nướng thoi sắt đánh ghi trước mặt.

Buộc vợ lìa chồng phát vãng nơi này;
Ép cha tách mẹ lưu vong chỗ khác.
Giằng con thơ chưa dứt sữa, quăng người dưng quản thúc không màng;
Đuổi bô lão chẳng còn hơi, uống nước lã bơ vơ  mặc xác.

Đàn tín hữu:
 Kẻ cuống cuồng đào tẩu, nhắm rừng sâu co gối phóng cho nhanh;
Người vội vã chui luồn, nhè đảo vắng chống bè lao thật gấp.
Còn đa số tập trung, giao kẻ lương tiếp tục canh phòng;
Với phần đông thâu tóm, chỉ dân ngoại luôn phiên kiểm soát.

Đã lắm kẻ, buông đức tin bởi hoảng loạn tâm hồn;
Và nhiều người, buộc bỏ đạo vì đớn đau thể xác.
Nhưng đa số, dẫu cực hình giữ vững lòng son;
Lại phần đông, dù khốn nạn thề kiên dạ sắt.

Trời hỡi:
Bụi vườn cây ấy chốn nằm sương;
Chuồng gia súc là nơi gối đất.
Đào mầm cây nuốt lúc thèm thuồng;
Mót củ ráy dằn khi đói khát.

Góp rơm khô trải xuống: ấy khung giường;
Vơ rạ mục đắp lên: đây tấm bạt.
Cắn răng cầm cự mưa phùn;
Mím lợi đối đầu gió bấc.

Cũng giống nòi đất Việt, sao ma vương phán thực hiện hung tàn;
Là dòng máu nhà Nam, mà bạo đế truyền thi hành độc ác.
Quần thần nhăn mặt hoảng kinh;
Triều chính lắc đầu ngơ ngác.

Vạn niềm đau với kẻ trung kiên, nghẹn ngào đành chấp nhận, đêm âm thầm ngước mắt khấn trời cao;
Muôn nỗi đắng cho người tín trực, uất ức cố cam thân, ngày lặng lẽ cúi đầu nguyền đất thấp.
Trên thiên cung thần thánh khóc thảm thê;
Dưới hoả ngục quỷ ma cười sằng sặc.

Quả nhiên:

Toàn thế giới rẻ khinh;
Khắp vũ hoàn oán trách.
Gây nguyên nhân giặc giã tung hoành;
Tạo đầu cớ ngoại xâm thủ đắc.

Nước nguy nan bởi chỉ dụ kinh hoàng;
Nhà điêu đứng do chiếu văn tàn ác.
Những thê lương con đỏ lãnh hoàn toàn;
Bao khổ nhục dân đen đeo tất tật.

Chữ hiếu sinh vua vứt trả tổ tiên;
Câu nhân ái đế quăng hoàn xã tắc.
-Ơn vua bốn chữ đời không có, dạ vẫn đinh ninh;
Kính Chúa trăm năm đạo vẫn còn, lòng luôn khắc tạc. (3)

……

Ngày nay:
Hạt dức tin vùi lấp, lại âm thầm triển nở xum xuê;
Cây chánh đạo trổ sinh, cứ lặng lẽ vươn lên cao ngất.
Núi xương kia là tường luỹ che ngăn;
Sông máu đó chính mạch dòng tưới mát.

Trời xanh thấu suốt, thấy bất bình thuở trước đó nào quên;
Đất lục am thông, nghe oan khuất đời sau kia đố thoát.
Chỉ một kiếp phù sinh, Thiên cao thính chí, thấy đau sầu người chịu hằng ghi;
Nhưng thiên thu vĩnh viễn, địa hạ nhãn tường, nghe phẫn nộ kẻ gây vẫn cất.

Ghi công tỏ tỏ rõ ràng;
Luận tội rành rành minh bạch.
Thước Trời ngay thẳng, đo để đủ lành, ngay!
Cân Đấng công bằng, tính cho vừa thiện, ác! ...

Bóng Tà Dương – Bùi Nghiệp
(Kính các Thánh Tử đạo VN- 2016)

--------
(1)Có sách viết là Sắc chỉ Phân sáp
(2) Nguyễn Phúc Thi còn có tên là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, vua thứ 4 triều Nguyễn, niên hiệu Tự Đức.
(3)-Ơn vua bốn chữ đời không có
Kính Chúa trăm năm đạo vẫn còn.

Hai câu đối này xin mượn của nhà văn Đình Quang, trích trong cuốn Quê Hương yêu dấu trên trang web Nghi Lộc quê tôi.

Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2016

MỪNG KÍNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM


MỪNG KÍNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

 

Thật anh dũng cha ông con đã chết

Chết oai hùng, oanh liệt, chết quang vinh

Để chứng minh, xác quyết một niềm  tin

Rằng Đạo Chúa Ki Tô, đường Chính Đạo

Con được hưởng một kho tàng gia bảo

Là niềm tin Tiên Tổ đã lưu truyền

Được tắm mình trong máu của Con Chiên

Xin các Đấng Hùng anh trên Cõi Phúc

Thương tôn tử đang lầm than bĩ cực

Nguyện cầu cho con cháu chốn phong ba

Biết theo gương sống đạo của ông cha

Mà quyết giữ đức tin  không sứt mẻ

Mà chiến đấu cùng quỷ ma trần thế

Bao thói đời chẳng thịt xẻ , đầu rơi

Bao đắm mê hệt như kẹo thơm mời

Cơn Sóng bão vô thần vây vây bủa

Đang âm ỉ lôi người người xa Chúa

Xưa các Ngài mạnh sức Chúa Ngôi Ba

Đã hy sinh quyết chết chứ chẳng thà…

Nay xin Chúa Thánh Thần  ban giúp sức

Để con được kiên cường không ngã gục

Giống anh hùng Tử đạo, bậc tiền nhân

Vì Đạo Trời mà chẳng ngại hiến thân

Để mai hạu cùng vinh hưởng Thiên Quốc

Chẳng uổng phí công ơn Chúa cứu chuộc…

THINH KHÔNG

13-11-2016

Thứ Sáu, 11 tháng 11, 2016

19_ XIN DẤU LẠ (Phúc Âm Thánh Marco)

19_  XIN DẤU LẠ (MC.8, 11-13)

Pha ri siêu luận tranh
Thử thách Đấng Chiên lành
Muốn thấy dăm điều lạ
Đòi xem một phép thần
Sẽ không điều dị hiển
Cũng chẳng dấu siêu ban
Chúa bỏ đi nơi khác
Mặc lời họ nói năng.
THINH KHÔNG

BÀI HỌA:

19_ CHÊ BIỆT PHÁI

Biệt phái miệng đua tranh
Hung hăng ép Chúa lành
Lao nhao đòi dấu lạ
Lố nhố thách điều thần
Của báu ngu không tặng
Kim cương ngốc chẳng ban
Coi khinh phường cố chấp
Không chứng tỏ quyền năng

Bùi Nghiệp

Thứ Năm, 20 tháng 10, 2016

18_ CÁI GÌ Ô UẾ (Phúc Âm Thánh Marco(

18_ CÁI GÌ Ô UẾ (MC.7, 14-23)

Điều chi làm uế tạp con người
Hãy lắng mà nghe lẽ sống đời
Từ dạ xuất ra  gây ố bẩn
Còn ngoài nhập lọt chẳng tanh hôi
Bởi lòng tham ác sinh tà tội
Vì trí gian sâu thốt hiểm lời
Hãy giữ tâm hồn luôn sạch sẽ
Để cho xú uế mãi xa rời
THINH KHÔNG

BÀI HỌA:

18_ NGUỒN TỘI.

Tội lỗi làm nhơ bẩn khắp người
Điều hơn lẽ thiệt nhủ cho đời
Nội tâm phát xuất sinh dơ dáy
Ngũ giác a tòng nở thối hôi
Chước quỷ bao vây trưng đủ cớ
Mưu ma xâm chiếm viện nhiều lời
Canh phòng cẩn mật đừng xao nhãng
Sự dữ đương nhiên phải tách rời
Bùi Nghiệp


Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2016

17_TRUYỀN THỐNG GIẢ HÌNH (Phúc Âm Thánh Marco)

17_ TRUYỀN THỐNG GIẢ HÌNH (MC.7, 1-12)

Luật cũ vào bàn phải rửa tay
Chăm chăm Biệt phái giữ điều này
Xăm soi đầy tớ Người hành trái
Hạch hỏi môn đồ Chúa sống sai
Kìa miệng các ngươi hằng kính mến
Mà lòng chư vị thật trơ phai
Điều răn thượng giới  thì coi nhẹ
Luật lệ  phàm nhân bảo thủ hoài.
THINH KHÔNG

BÀI HỌA:

17_ THÀNH KIẾN SAI LẦM

Thơm lòng hơn rửa sạch bàn tay
Câu nệ bo bo giữ thói này
Bới móc môn đồ theo luật trái
Xì xèo đệ tử thực hành sai
Làn da thể xác tùy cho sạch
Khối óc tâm hồn chớ để phai
Hãy giữ điều răn quan trọng nhất
Đừng nên tiểu tiết nhỏ nhen hoài

Bùi Nghiệp

Thứ Năm, 15 tháng 9, 2016

KHẤN MẸ SẦU BI



Ngắm khuôn mặt Mẹ trĩu sầu bi
Buồn dạ nhân gian quá lợm lì
Thập tự Con treo ,tàn nhẫn quá
Máu đào Chúa đổ, đớn đau chi
Mong tâm nhân thế chăm chăm sửa
Ước tội gian trần bớt bớt đi
Đêm vắng niệm suy xin khẩn Mẹ
Giúp con xa lánh thói mê ghì
           CÙ MÈ

       

Chủ Nhật, 11 tháng 9, 2016

16_HÓA BÁNH RA NHIỀU (Phúc Âm Thánh Marco)

16_ HÓA BÁNH RA NHIỀU (MC.6, 34-44)

Chúa dạy đám đông đã quá chiều
Thấy dân cũng đói bụng reo kêu
Hai con cá đó nào chia khắp
Năm ổ bánh này hãy phát theo
Kẻ kẻ bụng no , vui khắp nhóm
Người người dạ thỏa,  thuận muôn điều
Mẩu dư thu lại mười hai thúng
Kỳ tích Ngài làm tỏ dạ yêu.
THINH KHÔNG

BÀI HỌA:

16_ PHÉP LẠ NUÔI  DÂN

Mải mê thuyết giáo đã về chiều
Dân đói bơ phờ bụng réo kêu
Cá nhỏ hai con này phát tiếp
Bánh xoàng năm tấm cứ chia theo
Ngỡ ngàng môn đệ bừng trăm sự
Kinh ngạc chư dân thốt vạn điều
Phép lạ tràn trề ăn chẳng hết
Quyền năng chứng tỏ Chúa thương yêu.

Bùi Nghiệp

Thứ Bảy, 27 tháng 8, 2016

15_ VỀ THĂM NAZARETH (Phúc Âm Marco)

15_ VỀ THĂM NAZARET (MC.6, 1-6)

Một ngày đáo gót lại quê hương
Đức Chúa truyền rao giữa hội đường
Hàng xóm ngỡ ngàng: sao dị lạ
Đồng hương  kinh ngạc: thật vô thường
Anh em Người đó, làng rành tỏ
Cha mẹ ông đây, xóm tận tường
Họ cứng lòng tin không nhận lãnh
Ngài liền rời xứ dạy tha phương.
THINH KHÔNG

BÀI HỌA:

15_ QUÊ NHÀ BẠC ĐÃI

Cất bước nay về xứ cố hương
Lời thiêng Chúa giảng chốn linh đường
Ông này chính xác dòng dân dã
Người ấy đương nhiên tộc họ thường
Thành kiến sai lầm tai chẳng mở
U mê trái khoáy mắt đâu tường
Ai nào danh giá nơi quê cũ
Đành trẩy lên đàng đến viễn phương

Bùi Nghiệp

Thứ Năm, 18 tháng 8, 2016

CHA F.X. TRƯƠNG BỬU DIỆP - PHÚ

CHA PHAN-XI-CÔ TRƯƠNG BỬU DIỆP  PHÚ

Thánh hiệu Phan-sinh;
Danh xưng Bửu Diệp.
Linh mục can trường;
Chủ chăn quán triệt!

Sách ghi:
Đất  An Giang- Cồn Phước , năm Bính Thân (1896 ÂL), chào đời cam khổ khởi sinh;
Vùng Tắc Sậy - Bạc Liêu, niên Bính Tuất, tử đạo đau thương tuẫn tiết.
Bốn chín mùa tín nghĩa đuốc sáng kiên trung;
Hăm hai kỷ tông đồ đăng hành mải miết.

Lúc  mười hai thơ ấu, tuổi thiếu nhi vào chủng viện xứ An Giang;
Khi hai bảy trưởng thành, đời linh mục ruổi dong miền Nam Việt.
Nhận  giáo sư chủng viện, đêm ngày ươm cấy tu sinh;
Lo quản sở giáo dân, năm tháng rắc gieo thông điệp.

Đất Tắc sậy chân trần thẳng bước, từ Cam Bô- Bà Đốc- Khúc Tréo… đã từng;
Miệt Giá rai thuyền gỗ xuôi chèo,  đến  An Hải- Đầu Sấu- Chủ Chi…  đều biết.
Tin Mừng gió quyện chốn long đàm;
Lời Chúa mưa tuôn vùng hổ huyệt.

Dù chiến tranh loạn lạc, cuốc nông phu luôn vun xới cần cù;
Mặc xã hội nhiễu nhương, thuyền ngư phủ cứ bủa giăng mài miệt.
Sống trung trinh theo ý nguyện  đoan thề;
Chết tín thác với lời nguyền cả quyết.

Chủ chăn dám đương đầu;
Mục tử liều đổ huyết.
Vỗ về chăm sóc thương yêu;
An ủi trông nom chí thiết.

Ngày ấy:
Lũ hung đồ bố ráp bủa vây;
Quân độc hiểm tập trung tiêu diệt.
Kẻ tín thành áp đảo không còn;
Người mộ đạo khu trừ tận triệt.

Cha hiên ngang:  tất cả vô can;
Ngài dõng dạc: duy đây quy hiệp.
Xưng danh can đảm, bảy mươi vị hiện tại đâu hề;
Tuyên bố hào hùng, một mình tôi chủ trương sự việc.
Bày nhào tới trói liền;
Lũ ập vô dẫn biệt.

Đêm hôm đó:
Giáo hữu chiêm bao, bị  tử nạn tàn sinh;
Hồn thiêng báo mộng, đã hành hình trảm quyết!
Xác chìm loã thễ đau thương;
Thân chúi trần truồng thống thiết.

Đó đôi tay vững chắp thản nhiên;
Kìa khuôn mặt nghiêm hình lẫm liệt.
Giáo dân âm thầm khâm liệm, chốn thánh đường di xác đào mồ;
Chức sắc lặng lẽ quách quan, nơi Khúc Tréo chôn thây lấp huyệt.

Thở than khóc vị can trường;
Nấc nghẹn thương người dũng  liệt.
Hạt giống đạp lấp vùi;
Mầm tươi bùng nở biếc.
….
Năm kỷ dậu chốn nhà Tắc sậy (1969) , cốt chủ chăn cải táng đơn sơ;
Đến canh dần nơi đất Giá rai (2010), mộ linh mục trùng tu trác tuyệt.
Tận xa xôi vạn lý, người hành hương khấn nguyện tâm thành;
Nơi cách trở trăm đường, kẻ thiện tín xin ơn đặc biệt.

Hôm nay:
Bất kể dị đồng;
Không trừ khác biệt.
Ai xin ơn đều vui sướng tận cùng;
Kẻ khẩn khoản cứ hân hoan khôn xiết.
……
Đơn tuyên dương yêu cầu tấp nập, đợi Toà thánh châu phê;
Án Chân phước đạo đạt chất chồng, chờ Giáo Hoàng xét duyệt.
Mong đến ngày rạng rỡ huy hoàng;
Đợi đến độ vinh quang diễm tuyệt.

Tô với đất trời;
Soi hoà nhật nguyệt.
Kính trọng vô cùng;
Cha Trương Bửu Diệp!


Bùi Nghiệp

Thứ Sáu, 12 tháng 8, 2016

THÁNH PHAOLÔ HẠNH PHÚ

THÁNH PHAOLÔ HẠNH

Thánh hiệu Phao-lô;
Danh xưng Văn Hạnh.
Du đãng một vùng;
Giang hồ nhất khoảnh.

Khi xưa:
Từ Đinh Hợi (1827), đất Tân Triều –Đồng Nai hiện diện tầm thường;
Đến Kỷ Mùi (1859), miệt Chí Hoà- Chợ Quán vong thân kiêu hãnh.
Thuở hàn vi tâm địa tinh ma;
Thời niên tráng tính tình ranh mãnh.

Buông trôi xác thịt mê man;
Trói chặt tâm hồn đặc quánh.
 Gan to bướng bỉnh, tay chúa trùm nổi tiếng đầu đàn;
Khí phách ngang tàng, máu anh chị xưng danh thủ lãnh.

Đủ mưu ma gài bẫy lọc lừa
Đầy chước quỷ dở trò khoé cạnh
Nghiệp lái buôn nhè bóp cổ xiết hầu;
Nghề thương mại thói đè đầu bẻ cánh.

Thế nhưng:
Ý Chúa bày: đố kẻ bì so;
Lòng Trời đặt: nào ai ví sánh.
Hạt giống ngẫu nhiên giây phút nảy mầm;
Chồi non thong thả tháng ngày trổ nhánh.

Lời Chúa đây hằng cắm rễ dẫu mơ màng;
Tin mừng đó cứ ăn sâu dù mỏng mảnh.
Duy vài khắc, máu hào hùng can thiệp lũ cậy đông;
Đã một lần, tay nghĩa hiệp đỡ bênh người cô quạnh.

Trả lại sự công bằng;
Đền bù điều ngay ngắn.
Đến lúc hướng thiện hồi đầu;
Tới kỳ cải tà quy chánh.

Việc Trời làm khó thấu căn cơ;
Điều Chúa định  nào suy búp  nhánh.
Cả đời quẫn trí, xưa chai lỳ thể xác u mê;
Một buổi hồi tâm, nay biến đổi linh hồn thức tỉnh.

Đứa thù nhân:
Cầm dao nấp bụi, trả thù lập kế báo lũ đương quyền;
Ném đá giấu tay, rửa hận âm mưu tâu quan chấp chánh.
“Tên này thân Pháp gan lỳ;
Đứa đó Gia-tô bướng ngạnh”.

Lính sai nha lập tức còng tay;
Quân phủ vệ ào xô thúc cánh.
Nơi tra toà án, vẫn chối từ cấu kết Lang sa;
Chốn khảo pháp đình, lại xác định luôn theo đạo Thánh.

Cứ ép uổng, lấy bạc tiền muốn dụ chối đức tin;
Mong buông xuôi, dùng phú quý hòng khước từ linh ảnh .
Chẳng sợ gông xiềng gỗ vụt, gậy hèo;
Không e kềm kẹp, sắt nung, roi đánh.

Than ôi!
Công văn  vua Tự Đức châu phê;
Xử trảm kẻ tù nhân án lãnh.

Thân kiên dũng, đất Chí hoà đao phủ phân thây;
Xác trung thành, mồ Chợ quán anh hùng dứt mệnh.
Năm kỷ dậu (1909) Đức Thánh cha từng phong tước chân nhân;
Đến mậu thin (1988) Ngài Giáo chủ lại nâng hàm hiển thánh.

Gương anh dũng ngời ngời;
Thước hùng tâm vành vạch.
Hậu thế kính mừng;
Thánh Phao-lô Hạnh.


Bùi Nghiệp

Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2016

14_ LÒNG TIN ĐÃ CỨU CON (Phúc Âm Thánh Marco)

14_ LÒNG TIN ĐÃ CỨU CON (MC.5, 25-34)

Có bà băng huyết đã lâu năm
Len lỏi ra công để tới gần
Tin tưởng tay  rờ lòng khát vọng
Khẩn cầu ơn độ bệnh tiêu tan
Chúa rằng: Ai muốn xin chi thế
Bà đáp: Con mong được phúc lành
Căn bệnh nan y liền dứt hẳn
Lòng tin cứu chữa mọi nguy nàn.
THINH KHÔNG

BÀI HỌA:

14_ ĐỨC TIN MẠNH MẼ

 Băng huyết bệnh tình đã mấy năm
Bà kia thấy Chúa vội chen gần
Mân mê góc áo cầu đau hết
Thầm thĩ trong lòng khấn bệnh tan
Lập tức kinh kỳ thông thoáng khỏi
Bất ngờ huyết mạch dứt yên lành
Đức tin mạnh mẽ điều tiên quyết
Đã cứu người đây thoát ách nàn

Bùi Nghiệp

Thứ Ba, 12 tháng 7, 2016

THÁNH I NÊ ĐÊ (LÊ THỊ THÀNH)

(Kính ngày 12-07(

I Nê Thánh hiệu;
Danh Lê thị Thành.
Giáo hữu can tràng;
Nữ nhân oai lẫm.

Thư truyền :
Cảnh Hưng tứ thập nhị niên, nơi quê quán  Bái Điền , ấu nữ chào đời trong yêu thương yên ấm;(*)
Thiệu Trị tiên khởi nguyên kỷ, chốn lao tù Nam Định,  Chứng nhân  tử đạo    bởi tra khảo nhục hình .(*)
Tự ấu thơ với đích mẫu , quê ngoại  Ninh Bình;
Lên  đôi tám cùng tòng phu, đồng hương  Phúc Nhạc.
Dưỡng nuôi con , quản chi lao nhọc;
Dạy dỗ trẻ , hết mực vẹn toàn.
Chỉ bày con  học đạo lý  sống ngoan;
Thúc giục cháu năng đường ngay  rèn đức.
Răn con cái thuận hòa hạnh phúc;
Khuyên rể dâu hiếu đễ  yêu thương.
Lòng bác ái , lại  tỏ độ vô  lường;
Tâm kính tin , hằng khát khao khôn kể.
Đã nhiều phen giúp  Cha  Cố ẩn tàng, gian nguy chẳng nệ ;
Từng lắm bận che Thừa sai lẩn tránh , vạ họa  không   sờn .

Phục sinh năm Tân Sửu(1841(:
Một kẻ giáo gian lén báo tâng công;
Bốn Cha  giảng đạo đang hành sứ vụ.
Quan Tổng đốc  thân chinh  kéo đàn quân dữ;
Lính sai nha vây bủa ngăn ngả làng thôn.
Cố đạo bị truy đuổi dồn;
Tín đồ cố che chắn dấu .
Linh mục Lý ẩn vùi mương giậu;
Giáo dân Đê  phủ lấp rạ rơm.
Nguy nàn thay, lính dịch nhanh chân;
Tai họa lắm, Cha con sa lưới.
Nhà cửa bà truy trên lùng dưới;
Tay chân lính  cướp thóc đoạt tiền.
Bị điệu sân đình mặt vẫn điềm nhiên;
Chịu lôi dọc ngõ chân luôn vững cất.
Xích khóa tay , lính  điều ngục thất ;
Gông cùm cổ , quan giải tù nhân.
Dài lộ ải , toàn đi đảo bước lăn;
Suốt canh thâu, những nhào xiêu ngã ngửa.
Trước án quan  , gạt hết  lời khuyên bỏ Chúa;
Trong khổ ngục  , xưng vang  tiếng thệ tin Ngài.
Đòn vọt hung tàn tới tấp ra oai;
Củi cây ác độc dập dồn tra tấn.
Quan thượng lại đòi tới khảo lui , dụ quá khóa năm lần bảy bận;
Nữ nhân vẫn đáp ngay xưng rõ  , quyết kiên trung nhất dạ một lòng.
Trọn kiếp tín trung;
Suốt đời mộ kính.
Quan lệnh sai , cột y phục  phạm nhân thật kín;
Rắn truyền thả , luồn châu thân  nữ lão ghê hung.
Chẳng chút hoảng run;
Mà đầy an vững.
Loài độc thú cũng dè kiêng  , không hề cắn vụng;
Người can trường hằng trông cậy , vẫn mực đứng ngay .
Quan tức giận thay;
Lính kinh hãi lắm.
Khổ hình lại như mưa đẫm;
Thân thể  hồ tựa  bã băm.
Máu me bê bết áo quần;
Lời nguyện lỉ liên môi miệng.
Xin Chúa Thiên ban thêm sức mạnh;
Cầu Đức Mẹ  hộ giúp  lòng gan.
Con gáig khóc thương sầu não vào thăm ;
Mẫu thân  vui  vẻ lạc quan an vấn.
Áo mẹ nở đơm hoa hồng phúc đấy;
Lệ con   rơi tạo giếng lụy mà chi.
Trăm lần đòn vọt , sống lại chết đi
Mấy lượt cùm gông , tra suy khảo  kiệt.
Lại thêm bệnh kiết;
Càng khiến sức tàn  .
Vị Nữ liệt nguyện tiếng phó dâng;
Người Tôi trung  trút hơi giã thế.
Thân xác hóa nên của lễ;
Linh hồn  thăng tiến Cõi Thiêng.
Gieo đau khổ, vị giáo dân trung tín  hưởng phúc vô biên;
Gặt vinh quang, hàng phụ nữ kiên cường  lãnh ơn cao trọng.
Đấng Chứng nhân anh dũng;
Vị Tử Đạo kiêu hùng.

Trên ngai tòa Phê Rô:
Đức Pi Ô Thập, niên Kỷ Dậu  (1909) sắc phong Chân Phước huy hoàng;
Cha Giang Bảo Nhị, năm Mậu Thìn  (1988) tôn kính Thánh  Nhân vinh hiển.

Ngưỡng vọng:
Đoàn con kính nguyện;
Thánh Nữ cầu bầu.
Cho hậu thế hằng vững  tin sâu;
Học tiền nhân sống theo Thánh Ý.
                CÙ MÈ
                                  07-01-2013

(*) Thánh I Nê Đê (Lê thị Thành) sinh năm 1781 (Tân Sửu) thời  vua Lê Hiển Tông năm Cảnh Hưng thứ 42 tại làng Bái Điền, huyện Yên Định,tỉnh Thanh Hóa.Thuở nhỏ đã theo mẫu thân về sinh sống tại quê  ngoại Xư Phúc Nhạc, Phát Diệm (Ninh Bình)
(**) Thánh nữ tử đạo (rũ tù) tại Nam Định ngày  12-07-1841 (Tân sửu) ,năm Thiệu Trị nguyên niên
THÁNH I NÊ ĐÊ (LÊ THỊ THÀNH)
(Kính ngày 12-07(

I Nê Thánh hiệu;
Danh Lê thị Thành.
Giáo hữu can tràng;
Nữ nhân oai lẫm.

Thư truyền :
Cảnh Hưng tứ thập nhị niên, nơi quê quán  Bái Điền , ấu nữ chào đời trong yêu thương yên ấm;(*)
Thiệu Trị tiên khởi nguyên kỷ, chốn lao tù Nam Định,  Chứng nhân  tử đạo    bởi tra khảo nhục hình .(*)
Tự ấu thơ với đích mẫu , quê ngoại  Ninh Bình;
Lên  đôi tám cùng tòng phu, đồng hương  Phúc Nhạc.
Dưỡng nuôi con , quản chi lao nhọc;
Dạy dỗ trẻ , hết mực vẹn toàn.
Chỉ bày con  học đạo lý  sống ngoan;
Thúc giục cháu năng đường ngay  rèn đức.
Răn con cái thuận hòa hạnh phúc;
Khuyên rể dâu hiếu đễ  yêu thương.
Lòng bác ái , lại  tỏ độ vô  lường;
Tâm kính tin , hằng khát khao khôn kể.
Đã nhiều phen giúp  Cha  Cố ẩn tàng, gian nguy chẳng nệ ;
Từng lắm bận che Thừa sai lẩn tránh , vạ họa  không   sờn .

Phục sinh năm Tân Sửu(1841(:
Một kẻ giáo gian lén báo tâng công;
Bốn Cha  giảng đạo đang hành sứ vụ.
Quan Tổng đốc  thân chinh  kéo đàn quân dữ;
Lính sai nha vây bủa ngăn ngả làng thôn.
Cố đạo bị truy đuổi dồn;
Tín đồ cố che chắn dấu .
Linh mục Lý ẩn vùi mương giậu;
Giáo dân Đê  phủ lấp rạ rơm.
Nguy nàn thay, lính dịch nhanh chân;
Tai họa lắm, Cha con sa lưới.
Nhà cửa bà truy trên lùng dưới;
Tay chân lính  cướp thóc đoạt tiền.
Bị điệu sân đình mặt vẫn điềm nhiên;
Chịu lôi dọc ngõ chân luôn vững cất.
Xích khóa tay , lính  điều ngục thất ;
Gông cùm cổ , quan giải tù nhân.
Dài lộ ải , toàn đi đảo bước lăn;
Suốt canh thâu, những nhào xiêu ngã ngửa.
Trước án quan  , gạt hết  lời khuyên bỏ Chúa;
Trong khổ ngục  , xưng vang  tiếng thệ tin Ngài.
Đòn vọt hung tàn tới tấp ra oai;
Củi cây ác độc dập dồn tra tấn.
Quan thượng lại đòi tới khảo lui , dụ quá khóa năm lần bảy bận;
Nữ nhân vẫn đáp ngay xưng rõ  , quyết kiên trung nhất dạ một lòng.
Trọn kiếp tín trung;
Suốt đời mộ kính.
Quan lệnh sai , cột y phục  phạm nhân thật kín;
Rắn truyền thả , luồn châu thân  nữ lão ghê hung.
Chẳng chút hoảng run;
Mà đầy an vững.
Loài độc thú cũng dè kiêng  , không hề cắn vụng;
Người can trường hằng trông cậy , vẫn mực đứng ngay .
Quan tức giận thay;
Lính kinh hãi lắm.
Khổ hình lại như mưa đẫm;
Thân thể  hồ tựa  bã băm.
Máu me bê bết áo quần;
Lời nguyện lỉ liên môi miệng.
Xin Chúa Thiên ban thêm sức mạnh;
Cầu Đức Mẹ  hộ giúp  lòng gan.
Con gáig khóc thương sầu não vào thăm ;
Mẫu thân  vui  vẻ lạc quan an vấn.
Áo mẹ nở đơm hoa hồng phúc đấy;
Lệ con   rơi tạo giếng lụy mà chi.
Trăm lần đòn vọt , sống lại chết đi
Mấy lượt cùm gông , tra suy khảo  kiệt.
Lại thêm bệnh kiết;
Càng khiến sức tàn  .
Vị Nữ liệt nguyện tiếng phó dâng;
Người Tôi trung  trút hơi giã thế.
Thân xác hóa nên của lễ;
Linh hồn  thăng tiến Cõi Thiêng.
Gieo đau khổ, vị giáo dân trung tín  hưởng phúc vô biên;
Gặt vinh quang, hàng phụ nữ kiên cường  lãnh ơn cao trọng.
Đấng Chứng nhân anh dũng;
Vị Tử Đạo kiêu hùng.

Trên ngai tòa Phê Rô:
Đức Pi Ô Thập, niên Kỷ Dậu  (1909) sắc phong Chân Phước huy hoàng;
Cha Giang Bảo Nhị, năm Mậu Thìn  (1988) tôn kính Thánh  Nhân vinh hiển.

Ngưỡng vọng:
Đoàn con kính nguyện;
Thánh Nữ cầu bầu.
Cho hậu thế hằng vững  tin sâu;
Học tiền nhân sống theo Thánh Ý.
                CÙ MÈ
                                  07-01-2013

(*) Thánh I Nê Đê (Lê thị Thành) sinh năm 1781 (Tân Sửu) thời  vua Lê Hiển Tông năm Cảnh Hưng thứ 42 tại làng Bái Điền, huyện Yên Định,tỉnh Thanh Hóa.Thuở nhỏ đã theo mẫu thân về sinh sống tại quê  ngoại Xư Phúc Nhạc, Phát Diệm (Ninh Bình)
(**) Thánh nữ tử đạo (rũ tù) tại Nam Định ngày  12-07-1841 (Tân sửu) ,năm Thiệu Trị nguyên niên