THIÊN NGA
THOÁT NẠN
Bão gây ngỗng lạc đường bay
Thiện tâm muốn cứu, khôn hay ý người!
Sửa soạn đi dự Thánh Lễ nửa đêm kỷ niệm mừng Chúa giáng sinh, Hoàng vừa trang
điểm vừa cất tiếng nhè nhẹ ca: "Hát khen mừng Chúa giáng sinh ra đời,
giáng sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa."
- Hừ, thật
khôi hài! Chúa mà lại chịu sinh ra làm người rồi lại nằm trong máng lừa, chuyện
giả tưởng, lố lăng! Việt, chồng Hoàng cất tiếng chen vào.
- Hoàng thụng
mặt, mất hứng liền nói, Thì anh cứ theo em và các con đi lễ, nghe Phúc Âm và
lắng nghe Cha giảng cùng học hỏi Tin Mừng thì anh sẽ rõ lý do sao lại có chuyện
huyền diệu như thế. Không hiểu rõ nguồn gốc mầu nhiệm về cứu thế thì chớ nên
vội vàng phê bình một cách lộng ngôn, để khi hiểu rõ lại phải ăn năn hối hận sự
mù quáng của mình . . !
Việt
và Hoàng cùng làm chung trong một sở nên quen biết nhau, rồi thương yêu nhau
muốn đi đến hôn nhân, nhưng vì khác biệt tôn giáo. Mẹ Việt bảo thủ, ngăn cản
không cho Việt lấy Hoàng vì Hoàng muốn Việt trở lại cùng tôn giáo là Thiên Chúa
Giáo để việc dạy dỗ con được dễ dàng hơn, bà bà phản đối, muốn đạo ai người ấy
giữ. Vì vậy, Việt cố năn nỉ Hoàng:
- Anh còn bà
mẹ già, anh đã cố gắng thuyết phục mẹ anh cho phép anh theo đạo Thiên Chúa Giáo
nhưng mẹ anh đã cự tuyệt. Bà bằng lòng cho chúng ta lấy nhau với điều kiện đạo
ai người đó giữ. Anh đề nghị; em xin phép Mẹ em cho anh đến trình bày hoàn cảnh
và năn nỉ mẹ em, xin người tạm chấp nhận điều kiện đó. Anh đồng quan niệm với
em là cha mẹ cùng chung một tín ngưỡng thì dễ dàng trong việc giáo dục con cái.
Anh long trọng hứa với Mẹ em và em ngay khi Mẹ anh qua đời anh sẽ xin trở lại
đạo liền.
Về phần Mẹ Hoàng, vì thương con nên bà
thuận cho con mình lấy người khác tôn giáo. Tin tưởng rất mạnh vào sự cầu
nguyện và đường lối sống đạo của bà và cách cư xử khôn khéo của con gái, bà hy
vọng sẽ hướng dẫn được một linh hồn tìm về với Chúa. Thế là Việt và Hoàng đã
thành hôn với nhau theo nghi thức công giáo. Việt đã hứa và ký kết chấp thuận
cho các con sinh ra được theo đạo Công Giáo.
Chẳng bao lâu mẹ qua đời, để tỏ ra là
người chính ngôn quân tử giữ lời hứa với vợ, Việt đã xin gia nhập vào đạo Công
Giáo. Nhưng theo đạo là để làm vừa lòng vợ mà thôi. Việt rất lơ là việc tìm
hiểu them giáo lý, Việt chẳng muốn cho ai biết sự cảm nghĩ về tôn giáo và để ý
đến ý nghĩa các ngày lễ, kể cả những ngày đại lễ như lễ Giáng Sinh. Tuy nhiên,
Việt vẫn để cho vợ được tự do tin tưởng hành đạo và dậy dỗ các con theo đức tin
Công Giáo.
Đã hai mươi năm, kể từ ngày thực sự làm
quen với nhau nhờ đêm Giáng Sinh, Hoàng muốn nhắc lại chuỗi ngày thơ mộng ấy
nên đã cầu nguyện cho chồng cùng đi dự Thánh Lễ đêm Giáng Sinh và tìm hiểu được
tình yêu cao cả của Thiên Chúa Cha ban tặng cho nhân loại một "món
quà" vô giá là đứa "CON" duy nhất của mình "Hài Đồng
Giêsu". Nhưng khi thấy chồng phê bình về ý nghĩa lời hát của mình, làm
Hoàng thất vọng và buồn bã.
Hoàng thường ngâm nga bài thơ mà Việt đã sáng tác tặng Hoàng để nhắc lại cái
buổi ban đầu âu yếm ấy:
Chiều hôm ấy gặp Em mừng Sinh Nhật
Chúa giáng trần cứu chuộc chúng nhân
sanh
Bước Em đi như cuốn cả hồn anh
Áo dài tím gió trong lành phất phới.
Tung bay tựa như bàn tay em với
Mau lên nào kẻo trễ lễ anh ơi!
Hồn lâng lâng anh hớn hở nhìn trời
Cầu lạy Chúa cho người con mới gặp
Hồn rung cảm đôi tim chung nhịp đập
Đêm diệu huyền hợp tấu nhạc uy linh
Đón hồng ân mầu nhiệp Chúa kết tinh
Hai nên một trong tình yêu Thánh thể!
Tuy nhiên Hoàng tin tưởng vào lời cầu
nguyện, một ngày nào đó Chúa sẽ đánh động lương tâm Việt để tìm ra chân lý. Vì
vậy Hoàng cố tìm cách nhắc lại những kỷ niệm đêm Giáng Sinh khi hai người mới
gặp nhau để khuyến khích Việt cùng gia đình đi dự Lễ. Nhưng Việt đã từ chối và
nói:
- Chuyện vô lý! Tại sao Thiên Chúa lại
phải tự hạ mình xuống trần gian làm người? Thật lố lăng, khôi hài..! Nếu quả
thật Ngài muốn chỉ cần phán một lời là xong đâu cần phải khổ sở như vậy! Hoàng
không muốn bàn cãi và giải thích cho việt, để có thể gây nên sự bất hòa vào
ngày đại lễ nên Hoàng và hai con đành thất vọng, ra đi dự Lễ bỏ Việt ở nhà một
mình.
Khoảng nửa giờ sau, Việt đang ngồi nhấm
nháp ly rượu vang đỏ bên cạnh lò sưởi và xem những trận đô vật trên màn ảnh TV.
Không để ý bên ngoài, thời tiết đã thình lình thay đổi, gió càng ngày càng mạnh
và trận bão tuyết đang tuôn rơi. Nghe tiếng gió gào, Việt liếc nhìn qua cửa
kính chỉ thấy trắng xóa, Việt rót thêm rượu, nhắp một hớp cho nóng bụng và tiếp
tục tỉnh bơ xem TV trước lò sưởi ấm áp không cần để ý bên ngoài.
Thình lình nghe một
tiếng động mạnh dường như vật gì rớt đập vào cửa sổ. rồi tiếp theo một tiếng
khác nữa, Việt đứng dậy nhìn ra cửa sổ nhưng chỉ có thể thấy xa được khoảng vài
bước. Một lát sau tiếng gió đã lặng, tuyết bắt đầu bớt rơi, Việt liền lò mò mạo
hiểm ra xem vật gì đã rơi đập vào cửa sổ nhà anh.
Việt giật mình nhìn thấy một đàn thiên
nga đang co ro dồn vào với nhau một đống trong thửa vườn bên hông nhà. Dường
như chúng đang trên đường di cư về miền Nam để tránh cái lạnh mùa đông ở miền
Bắc nhưng chẳng may gặp cơn bão tuyết quá sớm làm lạc đường bay bị thổi bạt
xuống khu vườn trống của Việt, không thức ăn, không nơi ẩn náu. Chúng chỉ vỗ
cánh, xô nhau mò mẫm bay vòng quanh khu vườn như trong vô vọng..! Việt nghĩ đến
tiếng động nghe thấy lúc ở trong nhà, có lẽ đã do một cặp nào đó bị gió thổi
mạnh đập vào cửa sổ gây ra.
Cảm thấy thương hại và muốn giúp đỡ
chúng, Việt nghĩ ngay đến chuồng ngựa hiện giờ đang trống có thể tạm là nơi đủ
ấm áp và an toàn cho chúng nghỉ qua đêm chờ trận bão tuyết tan. Nghĩ vậy, Việt
vào mở hết cửa chuồng ngựa rồi đứng xem và chờ đợi, hy vọng rằng đàn thiên nga
dại kia nhìn thấy cửa chuồng ngựa mở và trống sẽ lần vào để tránh lạnh. Nhưng
đàn thiên nga dại chỉ nhè nhẹ vỗ cánh như run rẩy trong vô vọng và chẳng để ý
đến hành động của Việt mở chuồng ngựa. Chúng cũng chẳng thể nhận thức ra việc
ấy có nghĩa gì với chúng! Việt vỗ tay ra hiệu cho chúng chú ý nhưng tiếng động
làm chúng sợ hãi thêm lại càng di chuyển xa hơn nữa.
Việt vào nhà lấy một ít bánh
mì bẻ nhỏ ra và rắc làm thành một đường nhỏ dẫn đến chuồng ngựa, nhưng đàn
thiên nga dại cũng chẳng hiểu gì. Việt cảm thấy chán nản. Anh liền đi vòng ra
phía sau và lùa chúng về phía chuồng ngựa. Hành động này làm cho chúng càng sợ
sệt hơn và chạy lung tung khắp ngả, ngoại trừ phía chuồng ngựa không một con
đến. Việt đã thất vọng không thể làm cho chúng chạy về hướng chuồng ngựa theo ý
mình chỉ dẫn để vào ẩn náu trong đó được an toàn và ấm áp hơn. Việt than thở,
Tại sao chúng lại không theo tôi? Chúng có nhận biết không, chỉ nơi đây mới có
thể cho chúng tránh qua cơn bão tuyết một cách an toàn!? Chúng mày thật ngu, vô
ơn chẳng hiểu gì lòng hảo tâm của tao!
Việt suy nghĩ trong giây lát và nhận ra
rằng chúng là loài vật không thể nào hiểu theo ý người. Việt lớn tiếng Than: "Chỉ có thể
được nếu ta là con thiên nga, mới có thể cứu được chúng!" Thế
rồi nẩy ra ý, Việt vào trong chuồng ngựa bắt một con thiên nga của Việt đang
nuôi, ẵm trong tay đi vòng ra phía sau đàn thiên nga dại quay một vòng để cả
đàn nhìn thấy rồi thả ra. Con thiên nga của Việt nuôi bay vượt qua đàn thiên
nga dại hướng thẳng vào chuồng ngựa. Liền tiếp theo ngay sau đó đàn thiên nga
dại bắt chước nhau từng con một nối đuôi bay theo vào trong chuồng ngựa không
sót một con.
Sững sờ và thinh lặng
trong giây phút lắng nghe tiếng vọng âm thanh của Việt vừa mới thốt ra cách đó
trong mấy phút: "Chỉ có thể được nếu ta là con thiên nga, mới có thể cứu
được chúng!" đang quay lại trong óc Việt. Rồi Việt liên tưởng đến câu mà
Việt đã nói với vợ trước đó: "Tại sao Thiên Chúa lại phải tự hạ mình xuống
trần gian làm người? Thật là lố lăng, khôi hài..!" Nghĩ đến đây, Việt đã
thức tỉnh, và hiểu được ý nghĩ thật là sâu xa chí lý. Đó là điều Thiên Chúa đã
thực hiện. Chúng ta là những con thiên nga dại, thất lạc, mù quáng, khờ khạo,
ngu đần. Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài làm Người như chúng ta để Người có
thể dẫn đường và cứu chúng ta "Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai
Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật để chuộc
những ai sống dưới lề luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử"
(Gl 4,4-5). Chúng ta được cứu rỗi khỏi phải chết đời đời.
Việt đã nhận thức ra được đó là ý nghĩa
của NGÀY GIÁNG SINH. Khi trận bão tuyết tan, tâm hồn Việt chìm trong
thinh lặng suy tư thiên ý thật là huyền diệu, giờ đây Việt mới đả thông và hiểu
thấu được ý nghĩa của GIÁNG SINH là tại sao Chúa Giêsu đã vâng lời tự hạ mình
làm người xuống thế gian. Ngài đã mặc lấy xác loài người để dẫn đường cho đồng
loại là con người vào chốn an toàn vĩnh cửu. Bao nhiêu năm nghi ngờ và bất tín
đã biến đi theo trận bão. Qùy ngay trên bãi tuyết, hai dòng nước mắt đã tuôn
trào trên má, lần đầu tiên Việt thực tâm cầu nguyện:
- Lạy Chúa! Cúi xin Chúa hãy thứ
tha cho con, bao nhiêu năm nay con đã lộng ngôn, bất tín, vì kiêu ngạo, chỉ lẽo
đẽu đeo chữ TÔI, đâu biết rằng
khi thêm huyền ngang, sắc dọc, nặng tròn, khiến mịt mù, mắt không thấy rõ nên
thân bằng xa lánh, xã hội ruồng bỏ, Thiên Chúa đau buốn!
- Lạy Chúa, trận bão đã thức tỉnh con,
giờ đây con đã hiểu thấu việc Chúa đã xuống thế mặc xác loài người để cứu chúng
con thoát khỏi trận bão... đời đời!
Lạy Chúa giờ
đây con đã thông hiểu:
“Đấng Cứu Thế không phải là vị vua oai phong
từ trời ngự xuống trên đám mây. Nhưng chỉ là một hài nhi bé nhỏ sơ sinh xuất
hiện giữa loài người như một mầm cây bé bỏng. như thân phận chúng con, cùng ở
với chúng con! Đấng Cứu Thế không phải là vị vua sang trọng ngự trong cung điện
nguy nga. Nhưng chỉ là anh thợ mộc nghèo hèn sống trong một làng quê hẻo lánh,
"Từ
Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được?"(Ga 1,46), lời Na-tha-na-en
nói khi Phi-líp-phê giới thiệu
Đức Giê-su.
Đấng Cứu Thế không phải là vị quan tòa oai
nghiêm hét ra lửa, thở ra khói. Nhưng chỉ là một lương y hiền từ đến chữa lành
những vết thương, an ủi những ưu sầu, nâng đỡ người yếu đuối, tha thứ kẻ tội
lỗi ngay tại những làng quê hẻo lánh.
Đấng Cứu Thế không đến trong vinh quang huy
hoàng, trong chiến thắng rực rỡ. Nhưng chỉ âm thầm và tình nghĩa như một người
bạn thân thiết, để mọi người không phân biệt giầu nghèo, sang trọng đều có thể
nhận ra Người cũng cùng hình dáng như mình để bay theo Người vào nơi an bình.
Đấng Cứu Thế không đến trong hàng ngũ những
người quý phái có địa vị cao trọng trong xã hội. Nhưng lui tới với những người
bé nhỏ nghèo hèn, những thành phần bị gạt ra bên lề xã hội.
Mùa vọng là mùa mong chờ Chúa đến. Chúa
không đến trong một biến cố kinh thiên động địa. Chúa không có những pha biểu
diễn ngoạn mục. Chúa không đến trong những thành công rực rỡ. Chúa không đến
trong uy tín hay quyền lực. Chúa sẽ chỉ đến rất âm thầm, bé nhỏ nhưng đầm ấm
tình người. Chúa sẽ đến trong một bàn tay kín đáo nâng đỡ. Chúa sẽ đến trong
một nụ cười khích lệ. Chúa sẽ đến trong một cái bắt tay thân ái. Chúa đến chỉ
thoáng qua. Nơi nào có dấu hiệu của tình thương, nơi đó đang vẽ ra khuôn mặt
của Thiên Chúa.” (một phần tổng hớp trong R. Veritas.)
Con xin ca ngợi và tôn vinh Chúa:
Đa tạ Chúa vì yêu thương, Người giáng
thế
Xác hồn này là nguyên thể Chúa ban
Biến thành thơ ca tụng trước thiên nhan
Nơi chính điện thiên đàng không giờ dứt
!
Louis Hoài Việt – Nguyễn Vĩnh Tường